๑۩۞۩๑ Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn ☼—Forum CỘNG ĐỒNG TEEN VIỆT ™ ๑۩۞۩๑
» Nếu đây là lần đầu tiên bạn tham gia diễn đàn, xin mời bạn xem phần Hướng Dẫn để biết cách dùng diễn đàn.» Để có thể tham gia thảo luận, các bạn phải đăng ký làm thành viên, Click Vào Đây Để Đăng Ký. » Nếu bạn đã có tài khoản mà đăng nhập không được hoặc quên mật khẩu, Click Vào Để Đây làm theo hướng dẫn.
Chùa Thầy quê Kim nha :D
Fri Oct 28, 2011 9:17 pm
sống vì ngày mai
Mái Nhà Tình Bạn - xuân kim
Hiện đang:
Số Bài : 16 Money : 53 Được Cám Ơn : 7 Sinh Nhật : 30/11/1992 Tham gia ngày: : 24/10/2011 Tuổi : 31 Đến từ : hà nội Châm ngôn sống : sống vì ngày mai
Tiêu đề: Chùa Thầy quê Kim nha :D
Tiêu đề:
Tên làng Thầy, chùa Thầy, núi Thầy, tổng Thầy gắn liền với cao tăng Từ Đạo Hạnh (?-1117), một hiện tượng văn hóa độc đáo. Ông tên húy là Từ Lộ, cha là Từ Vinh, mẹ là Tăng Thị Loan, quê ở hưng Yên Lãng, nay thuộc phường Láng Thượng (Đống Đa, Hà Nội). Ban đầu, ông tu ở chùa Láng, sau lên chùa Thầy, ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý Nhân Tông (1072-1127), vốn trước chỉ là một am nhỏ có tên là Hương Hải thuộc núi Sài. Cái tên "Thầy" là cách gọi của nhân dân mang tính thân mật, gần gũi mà vẫn rất kính trọng. Sự kiện nổi bật là việc ngài dùng bài thuốc Nam chữa bệnh cho phu nhân của Sùng Hiền hầu để bà sinh ra bậc quân vương Lý Thần Tông (1128-1138). Khi thiền sư Từ Đạo Hạnh thăng hóa (năm 1117) ở hang Thánh Hóa thì núi Thầy còn được gọi là núi Phật Tích; còn ngôi chùa thờ thiền sư gọi là chùa Thiên Phúc (với ý nghĩa là ngôi chùa linh thiêng và vị thánh Từ Đạo Hạnh ban phúc lộc cho chúng dân). Cái tên chùa Thầy là tên gọi chung cho cả cụm di tích danh thắng.
Tại chùa Long Đẩu, có bia dựng năm Giáp Ngọ (1294), dưới đời vua Trần Anh Tông (1293-1314), là một trong những tấm bia cổ nhất ở Việt Nam (chỉ sau bia chùa "Báo Ninh Sùng Phúc", thôn Vĩnh Khoái, xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, dựng năm Đinh Hợi (1107) và bia "Mộ chí phu nhân Phụng Thánh" chùa Phúc Thánh, xã Hương Nộn, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, dựng từ những năm giữa thế kỉ XII). Bia chùa Long Đẩu ghi tên và số ruộng của chùa, cho biết quy mô của chùa rất lớn.
Trên vách đá chùa Bối Am có 3 bia. Bia thứ nhất là "Bối Am tự bi", khắc năm Tân Mùi (1571), đời vua Lê Anh Tông (1557-1573) cho biết chùa Thầy nguyên thủy được xây dựng từ thế kỉ X, dưới thời Đinh (968-980) và được mở mang dưới các triều đại sau đó. Bia thứ hai là "Hiển Tông am bi ký" khắc năm Nhâm Thìn (1592), đời Mạc Mậu Hợp (1562-1592) ghi việc Mạc Thị Ngọc ý, con Thái úy Tây quốc công, hiến 2 mẫu 6 sào ruộng tư và 1 sào ao cho chùa làm ruộng để dưỡng tăng. Bia thứ ba khắc năm ất Mão (1855), ghi lại 7 bài thơ của Cử nhân, Lễ bộ Thượng thư Phan Huy Vịnh (1800-1870), quê ở làng Thầy, trên đường đi sứ phương Bắc lần thứ hai đã ghé qua quê nhà, đề tặng thơ (lần đi sứ này bắt đầu từ năm 1854 nhưng kéo dài đến tận năm 1857 vì các cuộc nổi dậy chống triều đình ở các tỉnh miền Nam Trung Quốc đã phong tỏa lối về nước ta).
Có một bài văn bia độc đáo được khắc trên quả chuông ở chùa Thiên Phúc. Chuông cao 1,22m; đường kính 0,56 m, đúc năm Giáp Dần (1794). Bài ký trên quả chuông này được soạn bởi Tiến sĩ, Lễ bộ Thượng thư Phan Huy ích (1750-1822), quê ở làng Thầy, nhắc đến việc quả chuông cũ của chùa đúc năm Kỷ Sửu (1109), đời vua Lý Nhân Tông (1072-1128), bị quân Tây Sơn phá để đúc tiền năm Kỷ Dậu (1789). Dân làng Thầy đã công đức để đúc lại chuông chùa và treo vào vị trí cũ.
Một trường hợp khá đặc biệt nữa là bia khắc trên đỉnh núi ở bên phải chùa Thiên Phúc. Nguyên thủy, đây là chữ "trực" (thẳng, ngay thẳng) do dân làng Đa Phúc khắc để phân định ranh giới 2 xã Đa Phúc và Sài Khê (nay là 2 thôn của xã Sài Sơn). Sau này, chức dịch địa phương cho khắc thêm 2 dấu chấm ở dưới, biến chữ "trực" thành chữ "chân" (chân thực, rõ ràng), chiều cao của chữ là 1,60m; với hàm ý xóa bỏ ranh giới trên thực địa, đồng thời xóa bỏ cả sự phân biệt trong suy nghĩ, sự chia rẽ mang tính cục bộ giữa nhân dân 2 xã một thời gian dài trước đó. Tuy không xác định được chính xác năm lập bia này nhưng căn cứ vào nội dung văn bia thì có thể khẳng định bia này được khắc dưới thời Nguyễn (1802-1945).
Các bài văn bia ở khu vực chùa Thầy (gồm núi Thầy, làng Thầy, các di tích LSVH...) đã giúp hậu thế hiểu thêm khá nhiều điều về các lĩnh vực địa lí, lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa... Đã qua hơn 10 thế kỉ và mãi mãi sau này, chùa Thầy với lễ hội đông vui bậc nhất cả nước là điểm đến đầy lí thú trong hành trình du lịch văn hóa của khách thập phương. Một vùng non nước chùa Thầy - bài thơ thiên tạo giữa trời - "quyến bước chân" người đến đây và hẹn ngày trở lại.
* Bài viết sưu tầm nên ghi rõ nguồn hoặc viết (ST). * Không dùng những ngôn từ thiếu lịch sự. * Tránh spam nhảm những chủ đề không liên quan. * Bấm nút A/a bên góc phải nếu gặp vấn đề khi chèn hình vui. * Nếu thấy bài viết hay, hãy bấm nút để khích lệ người viết. Yêu cầu viết tiếng Việt có dấu.